Có nhiều bạn luôn đặt ra câu hỏi là Bệnh viêm gan B có phổ biến hay không? Theo bác sĩ nhi khoa Robert W. Sears chỉ trong cuốn sách “Vắc-Xin: Những điều cần biết về tiêm chủng” thì bệnh viêm gan B không phổ biến. Căn bệnh này không phổ biến ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Ở Mỹ, mỗi năm chỉ có khoảng 30 trẻ sơ sinh, 30 trẻ từ một đến bốn tuổi và 70 trẻ từ năm đến 14 tuổi được chẩn đoán mắc viêm gan B. Hầu như tất cả những trường hợp này đều nhiễm bệnh trong quá trình sinh của người mẹ mắc viêm gan B nhưng chưa được chẩn đoán.
Trong hơn hai thập niên qua, khoảng 6.000 ca bệnh mới đã được ghi nhận hằng năm ở người lớn và khoảng 1.300 ca ở trẻ vị thành niên và sinh viên. Con số này đã giảm đi và tổng số ca được ghi nhận vào năm 2007 chỉ còn 4.500. Người ta ước tính rằng khoảng 1% dân số Mỹ mắc viêm gan B mạn tính. Các bậc cha mẹ có thể đặt ra một câu hỏi là tại sao nước Mỹ lại tiêm vắc-xin từ khi trẻ mới ra đời để phòng một căn bệnh gần như chắc chắn trẻ không gặp phải trước tuổi vị thành niên (giả sử mẹ của bé và các thành viên khác trong gia đình không mắc bệnh)? Vào những năm 1980, các chương trình tiêm chủng đã được khởi động, nhắm đến những người có nguy cơ cao (người tiêm chích ma túy, người hành nghề mại dâm, người trưởng thành quan hệ tình dục bừa bãi) để ngăn chặn sự lây lan của bệnh. Bằng việc chỉ tiêm chủng cho những nhóm người có nguy cơ cao, người ta hi vọng có thể loại bỏ căn bệnh. Nhưng như chúng ta đã chứng kiến, việc làm này không hiệu quả vì những nhóm người đó thường không đi tiêm phòng.
Tình trạng lây nhiễm từ mẹ sang con có thể được ngăn chặn nếu bệnh được phát hiện qua quá trình chăm sóc tiền sản, tuy nhiên nhóm người này cũng chiếm tỉ lệ nhỏ. Mỗi năm, có một
ca bệnh ở trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ trên mỗi 100.000 trẻ em hoặc trên mỗi 360 ca bệnh (xem phần Tỉ lệ mắc viêm gan B ở trẻ em trong Tài liệu tham khảo). Tuy nhiên, các ca bệnh ở người trưởng thành vẫn tăng ở mức cao.
Các nhà nghiên cứu đã xem xét kết quả của việc tiêm phòng cho mọi trẻ sơ sinh, thay vì chỉ những trẻ có nguy cơ. Mục tiêu là tạo ra một thế hệ được bảo vệ khỏi bệnh và sau cùng
làm giảm tỉ lệ mắc bệnh trong dân số. Mặc dù trẻ không thực sự cần được bảo vệ cho đến tuổi vị thành niên, nhưng việc tiêm chủng cho trẻ em trong một buổi khám định kì lại dễ thực hiện hơn nhiều. Các nhà nghiên cứu cũng muốn xác định liệu viêm gan B có thể lây qua sự tiếp xúc hằng ngày không, hay chỉ qua hoạt động tình dục. Nếu đúng như vậy, điều đó có nghĩa là mọi trẻ sơ sinh và trẻ em ở Mỹ đều có nguy cơ mắc bệnh trước khi có hoạt động tình dục. Khi đó, việc tiêm chủng cho trẻ sơ sinh sẽ là điều hợp lí. Tuy nhiên, CDC luôn khẳng định rằng viêm gan B không lây truyền qua tiếp xúc thông thường. Trong mục
Hỏi đáp về viêm gan B trên trang web của mình, CDC đã viết rằng: “Viêm gan B không lây truyền qua thức ăn hoặc nước uống, dùng chung đồ đựng thức ăn, cho con bú, ôm, hôn, nắm
tay, ho hoặc hắt hơi.”
Một số nghiên cứu (xem phần Tỉ lệ mắc viêm gan B ở trẻ em trong Tài liệu tham khảo) được thực hiện vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 đã kết luận rằng mỗi năm nước Mỹ có đến 30.000 trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ bị mắc viêm gan B qua những tiếp xúc không liên quan đến tình dục. Nhưng theo ý kiến của cá nhân tôi, các nghiên cứu này còn một số điểm nghi vấn. Thay vì dựa trên số trẻ em tại Mỹ được chẩn đoán và sàng lọc để suy đoán tỉ lệ mắc bệnh, họ dùng con số người trưởng thành mắc viêm gan B ở Mỹ để suy ngược lại xem bao nhiêu trong số những người này từng nhiễm bệnh khi còn nhỏ. Các nhà nghiên cứu cho rằng có khoảng 1,25 triệu người trưởng thành mắc bệnh mạn tính trên toàn nước Mỹ vào bất kì thời điểm nào. Phân tích thống kê cho thấy phải có khoảng 200.000 ca mắc mới mỗi năm để dẫn đến số người nhiễm bệnh trên. Khi nghiên cứu chỉ ra rằng nhiều ca bệnh ở người trưởng thành không thể dò ngược lại nguồn bệnh đã biết (một người bạn tình, một người mẹ bị nhiễm bệnh tại thời điểm sinh con hoặc những hành vi có nguy cơ cao), người ta đã đưa ra giả thuyết rằng nhiều người lớn đã tiếp xúc với nguồn bệnh khi còn nhỏ thông qua tiếp xúc hằng ngày (kể từ thời điểm ấy, hiện tượng này chỉ được ghi nhận một số ít lần). Nghiên cứu kết luận rằng mỗi năm nước Mỹ có 30.000 trẻ sơ sinh và trẻ em bị mắc viêm gan B, khoảng 200.000 ca mắc mới ở người lớn mỗi năm, thêm vào đó là 1,25 triệu ca mạn tính sẵn có. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu đã nhận tài trợ từ các nhà sản xuất vắc-xin hoặc sau đó làm việc cho một nhà sản xuất vắc-xin (GlaxoSmithKline và Merck). Một số thành viên của CDC, những người đề nghị bổ sung loại vắc-xin này vào lịch tiêm chủng cho trẻ sơ sinh, cũng được các nhà sản xuất vắc-xin tài trợ nghiên cứu (xem Chương 14 để biết thêm về xung đột lợi ích trong hoạch định chính sách về vắc-xin). Nghiên cứu tiếp nối kể từ thời điểm đó đã ước tính rằng số lượng trẻ nhiễm bệnh mỗi năm là từ 12.000 đến 25.000 trong thời kì chưa dùng vắc-xin, con số này cũng được đưa ra bằng phép phân tích thống kê tương tự như nghiên cứu trước.
Chúng ta hiện không có những bằng chứng chắc chắn về việc viêm gan B là bệnh ở trẻ em, ngoại trừ trường hợp lây bệnh từ mẹ sang con, lây qua truyền máu hay vô tình phơi nhiễm với máu có mầm bệnh. Trang web của CDC khẳng định rõ ràng rằng viêm gan B không lây truyền qua tiếp xúc thông thường. Hiện nay, nước Mỹ chỉ có khoảng 130 ca bệnh ở trẻ sơ sinh được chẩn đoán mỗi năm, dù CDC ước tính rằng xét đến cả các ca bệnh bị bỏ sót, con cố này có thể lên đến 1.000.